Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Các phương pháp điều trị sỏi đường tiết niệu

Không đóng trình duyệt đến khi xuất hiện nút TẢI XUỐNG

Nội dung tài liệu cung cấp gồm dịch tễ học sỏi đường tiết niệu, điều trị nội khoa, các phương pháp điều trị sỏi thận ít sang chấn, tản sỏi ngoài cơ thể tán sỏi qua nội soi bàng quang – niệu quản - bể thận ngược dòng, lấy sỏi thận qua da, phẫu thuật nội soi trong hoặc sau phúc mạc, mổ mở lấy sỏi, cắt thận bán phần, cắt thận toàn bộ. | Các phương pháp điều trị sỏi đường tiết niệu Các phương pháp điều trị sỏi đường tiết niệu PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm 1. Dịch tễ học sỏi đường tiết niệu Sỏi tiết niệu đã thấy ở những xác ướp Ai Cập cổ đại từ năm 4800 trước công nguyên. Tỷ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu giao động từ 2 - 3%, thay đổi tuỳ theo từng vùng và hay tái phát với tỷ lệ khoảng 10% sau 1 năm; 35% sau 5 năm; 50% sau 10 năm. Sỏi đường tiết niệu là bệnh do sỏi được hình thành trong đường tiết niệu. Biểu hiện lâm sàng là hội chứng tắc nghẽn đường tiết niệu và các biến chứng do sỏi gây nên. Bệnh gặp ở mọi chủng tộc, mọi lứa tuổi, mọi giới và mọi vùng địa lý. Trên thế giới, có những vùng có tỉ lệ sỏi tiết niệu cao gọi là vành đai sỏi. Việt Nam là nước nằm trong vùng vành đai sỏi của thế giới, tỉ lệ sỏi gặp từ 2- 12% dân số tùy theo vùng. Người ta thấy tỉ lệ sỏi đường tiết niệu tăng lên ở các nước công nghiệp phát triển, và tỉ lệ sỏi đường tiết niệu thấp hơn ở các nước mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Tỉ lệ sỏi đường tiết niệu cao ở những vùng khí hậu nóng và khô, ở Israel tỉ lệ sỏi đường tiết niệu cao hơn các vùng ôn đới ở Châu Âu. Quan sát ở các nước phương tây cho thấy, thành phần và vị trí sỏi đường tiết niệu thay đổi theo thời gian. Trước những năm 1900, bệnh gặp chủ yếu là sỏi bàng quang, xảy ra ở trẻ em với thành phần chính của sỏi là ammonium acid urat, có hoặc không có oxalat calci. Sau 1900, bức tranh về sỏi đường tiết niệu thay đổi với biểu hiện chủ yếu là sỏi đường tiết niệu cao (đài bể thận và niệu quản), xảy ra chủ yếu là người lớn với thành phần chủ yếu là sỏi calci oxalat có hoặc không có calci phosphat. Sự thay đổi này là do ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng và vệ sinh. Sỏi đường tiết niệu với thành phần magnesium ammonium phosphat thường xảy ra ở những người bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu, chủ yếu thấy ở những phụ nữ bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu mà loại vi khuẩn có khả năng phân hủy ure thành ammonia và carbon dioxid. Ở nhiều nước, nhất là .

Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.