"Ôi những dòng sông bắt đầu từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”…
("Đất Nước" - Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sống núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
"Chúng thủy giai đông tẩu
Đà Giang độc bắc lưu".
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm "Sông Đà" ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà" là một trong số 15 bài của tác phẩm “Sông Đà”, là một “tờ hoa", “trang hoa” đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một "cố nhân”, một cố nhân "chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết tên hàng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có câu tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".
Ở phía trên trung lưu sông Đà, đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm.." .Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc" như rót dầu sỏi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe "như là oán trách..,như là van xin.... như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. .Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lọn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có "diện mạo và tâm địa" nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi "thạch trận", dày đặc “cửa tử”, la liệt “boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt” có bộ mặt "xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng "bẻ gãy cán chèo", "bắt chết" những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ải nước", đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà", ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với "một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” hoặc "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: "Mùa xuân dòng sông ngọc bích (…); Mùa thu nước sông Đá lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà "lặng tờ”; hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê "quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trọng một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá "điểm nhãn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi gianh đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi thoi". Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông Đà đem lại cho người đi rừng niềm vui "như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi",v.v...
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút "Sông Đà” là loại “tùy bút – bút kí”. Đọc tùy bút "Người lái đò Sông Đà", ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, vẻ cảnh và người Tây Bắc,... Chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ "đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ của sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: " Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông", và "Chúng thủy giai đông tẩu -Đà Giang độc bắc lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp "Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lý Bạch hơn 1.300 năm về trước:
"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị:
"Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Qua đó, ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỉ.
Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
"Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu".
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. "Người lái đò Sông Đà" đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đă góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa Văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc "Vang bóng một thời" chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu,... của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền Văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.
Đọc tùy bút "Người lại đò Sông Đà", ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã "đề thơ vào sông nước". Ông đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn hóa, nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người - ông lái đò - ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫm và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc "Người lái đò Sông Đà" ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dùng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt.