Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là một nhà văn có vị trí đặc biệt quan trọng. Với vốn ngôn ngữ phong phú và sự cảm nhận tinh tế về cuộc sống, con người, nhà văn đã thể hiện qua tác phẩm của mình những suy tưởng sâu sắc về con người và cuộc sống. Bao trùm lên tất cả, có thể nói, suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân. Có thể thấy sự thể hiện của điều này qua “Chữ người tử tù”, tác phẩm được rút ra từ tập truyện miêu tả về những cái đẹp của một thời vang bóng.
Cái đẹp là cái người nghệ sĩ xưa nay muôn đời hướng tới. Sứ mệnh của người nghệ sĩ xét cho cùng là đi tìm cái đẹp trong cuộc đời để kết tinh thành cái đẹp trong nghệ thuật. Phát hiện, ngợi ca và tôn vinh cái đẹp, Nguyễn Tuân đã đi theo con đường của riêng mình khi nâng nó lên thành một tôn giáo. Có người nói Nguyễn Tuân là người “suốt đời đi tìm sự thật và cái đẹp”, ông viết: “Nguyễn sinh ra để phụng thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Cái đẹp trong sáng tác của Nguyễn Tuân làm nên nét riêng cho tính nhân văn trong các tác phẩm của ông, nó thể hiện phong cách riêng, ngang tàng của một người nghệ sĩ dám lựa chọn cho mình một con đường riêng và lấy nó đối lại với toàn bộ xã hội “ối a ba phèng”, nhố nhăng tây, tàu lẫn lộn thời bấy giờ làm sai lạc đi biết bao giá trị cũ. Tất cả những gì muốn trở thành đề tài của Nguyễn Tuân đều phải là cái đẹp. Thiên nhiên trong thơ ông là cả một bức tranh kì thú. Đó là con sống Đà ở đoạn thượng nguồn thì hung dữ như một tử thần, “sẵn sàng đòi nợ suýt” bất kì người lái đò nào đi qua đó. sống Đà đẹp hùng vĩ và có phần hoang dại. Hết đoạn thượng nguồn, sống Đà khiến người ta phải ngỡ ngàng bởi vẻ dịu dàng như một thiếu nữ. “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân (...). Bờ sống hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, uống trà thì phải là chén trà sương, nước được múc vào buổi sáng sớm từ một giếng nước tinh khiết trong chùa; Ngắm hoa thì phải là những bông hoa thủy tiên được chăm sóc cầu kì cho nở đúng vụ; Uống trà cùng với “hương cuội” được làm từ mạch nha bọc lên những viên sỏi được chọn lựa kĩ càng, ướp trong gió hoa thủy tiên;... Nhân vật của ông dù là người hành khất, kẻ tử tù đến những người lao động bình thường đều là những người nghệ sĩ tài hoa. Ông hành khất không xin gì chỉ xin được uống một tách trà, pha trà mà có phong thái đạo mạo như một tiên ông, tinh tế đến mức nhận ra được cả trong ấm trà đó có lẫn duy nhất một vỏ trấu. Đó không phải là người hành khất nữa mà trở thành một người nghệ sĩ đích thực. Người lái đò ngày ngày chở khách đi qua đoạn thượng nguồn sống Đà dữ dằn trở thành một vị tướng, một người nghệ sĩ tài hoa. ông bài binh bố trận, chống đỡ lại con sống với những thế võ nhà nghề và để rồi cuối cùng khuất phục nó, chiến thắng nó một cách vẻ vang nhưng điều đáng nói là vẻ đẹp trong cuộc sống lao động đó lại trở thành nhịp sống lao động bình thường của ông lái đò. Điều đó khiến cho hình ảnh ông lái đò trở thành một ấn tượng không thể nào phai trong lòng người đọc...
Trong những sáng tác giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, là một nhà văn khuynh hướng lãng mạn, Nguyễn Tuân đã chối bỏ thực tại bằng cách trở về với quá khứ vàng son đã qua mà nay chỉ còn một thời vang bóng. Ông nâng niu, trân trọng những giá trị văn hóa, văn hiến cổ truyền của dân tộc thời xưa cũ nay chỉ còn xót lại trong kí ức của những người có thiên lương. Có lẽ chính vì lẽ đó mà trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, những nhân vật mà ông yêu thích nhất và cũng kính trọng nhất là những người tài hoa, tài tử. Đó là những người sống đẹp, những người sáng tạo ra cái đẹp hay những người tôn thờ cái đẹp. Nguyễn Tuân tìm thấy cái đẹp ở lớp nhà nho tài hoa, tài tử tuy đã bất lực trước thời thế nhưng lại không chịu làm lành với xã hội kim tiền ô trọc mà dung lối sống tài hoa, tài tử của mình để phủ nhận xã hội thực tại đương thời. Có thể nói kết tinh cao nhất tài hoa, khí phách và thiên lương là “Chữ người tử tù”. Ngay từ tên truyện đã mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. “Chữ người tử tù” ở đây là chữ Hán gắn với nghệ thuật thư pháp. Với người Trung Quốc, thi pháp là một nghệ thuật cao câp, thanh cao bậc nhất. Đây là một trong những nghệ thuật tinh túy thể hiện khí phách thiên lương tài hoa của con người. Nghịch lí ở đây là chữ thuộc về nghệ thuật, cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp lại là người tử tù - người mà xưa nay khi nhắc đến người ta vẫn có rất nhiều định kiến. Tình huống oái oăm nhưng nhờ đó mà cái đẹp được thăng hoa để tỏa sáng. Suy tưởng về cái đẹp của tác phẩm được thể hiện qua việc ca ngợi tài hoa, nhân cách của hai nhân vật chính trong truyện: Huấn Cao và viên quản ngục, đặc biệt là ở hình tượng người tử tù Huấn Cao.
Huấn Cao là hình tượng tiêu biểu cho cái tài hoa, khí phách, cho cái đẹp mà Nguyễn Tuân tôn thờ. Đó là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hóa, và được thể hiện một cách khác thường trong một hoàn cảnh tưởng chừng như không thể xảy ra. vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết được thể hiện ở tài hoa, nghệ sĩ của ông. Huấn cao là người có tài viết chữ đẹp. Cái tài đó nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn. Ông viết “rất nhanh và đẹp”, “những nét chữ vuông vắn lắm”. Những nét chữ ấy đẹp không chỉ bởi tài hoa của người viết mà còn bởi nó chứa đựng trong đó "hoài bão tung hoành của cả một đời người". Tất cả tinh hoa, khí phách, tất cả tâm hồn, tình cảm và nhân cách của con người, cả những niềm mơ ước và ý chí khát vọng cũng đều được gửi gắm vào trong từng nét chữ. Không chỉ có tài viết chữ đẹp, Huấn Cao còn khiến người ta phải cảm phục bởi khí phách hiên ngang, bất khuất. Ngay từ khi chưa xuất hiện, Nguyễn Tuân đã để cho tiếng tăm của nhân vật bay vào tận trong nhà tù làm chồ bản thân viên quản cũng phải lây làm tò mò. Đó là một nhà nho không chịu chấp nhận tình cảnh xã hội bất công mà đứng lên cầm đầu cuộc nổi loạn để trở thành kẻ đại nghịch. Bước vào trong tù, ông vẫn hiên ngang như chỗ không người, không hề bị quyền thế và địa vị làm cho run sợ. Hành động dỗ gông không phải là một hành động thông thường, nó thể hiện khí phách hiên ngang thẳng thắn của Huấn Cao, dù bị xiềng xích nhưng ông vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần. Những ngày tháng trong tù chờ chết, ông vẫn “thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”. Đó là một phong thái ung dung, tự do, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Dưới con mắt Huấn Cao, những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị chỉ là những “trò tiểu nhân thị oai”. Chính vì lẽ đó mà ông không ngần ngại trả lời quản ngục một cách khinh bạc đến điều. Bên cạnh đó, nhân vật còn được nhà văn ngợi ca ở vẻ đẹp của thiên lương, vẻ đẹp của một con người có nhân cách trong sáng. Huấn Cao ngay từ lúc sinh thời đã “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”. Bởi vậy nên chữ ông đẹp nổi tiếng nhưng cả cuộc đời mình ông mới chỉ cho chữ ba người bạn thân và sau này quản ngục nữa là người cuối cùng. Đó là sự khẳng khái của một người trọng nghĩa khí, khinh thường tiền bạc, danh lợi. Huấn cao chấp nhận cho chữ quản ngục đo cảm một “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” hiểu ra “sở thích cao quý” của quản ngục. Suốt cả đời mình, ông chỉ tôn thờ cái đẹp, ông chỉ trân trọng những người cũng có thiên lương giống mình, những người biết trân trọng cái tài và yêu quý cái đẹp.
Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục trên bình diện xã hội là hoàn toàn đối lập nhau nhưng cả hai đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, có thiên lương cao đẹp nên họ trở thành tri âm, tri kỉ với nhau. Quản ngục sống trong cảnh lừa lọc tàn nhẫn nhưng vẫn giữ được những phẩm cách cao quỷ của mình. Tuy không phải là người làm nghệ thuật nhưng ngục quan có một tâm hồn nghệ sĩ của một kẻ liên tài. Ông là người có tâm hồn nghệ sĩ, say mê và quý trọng cái đẹp. Một người như thế mới có thú chơi tao nhã: chơi chữ. Không chỉ thế, đó còn là một người có “tấm lòng biết giá người, biết trọng người ngay". Viên quản ngục say mê cái tài, cái đẹp và nhân cách của Huân Cao nên chân thành, cung kính và biệt đãi ông, mặc thái độ cao ngạo và khinh mạn của ông Huân. Trước Huấn Cao, quản ngục chỉ thấy mình là một “kẻ tiểu lại giữ tù” thấp hèn. ở đây, vẻ đẹp của quản ngục được thể hiện ở thái độ cung kính với Huấn Cao - hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái “thiên lương” cao cả. Thái độ khúm núm của ông ở cuối tác phẩm không những không khiến làm mất đi vẻ đẹp của một người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" mà còn làm cho nó trở nên sâu sắc, ấn tượng hơn.
Vẻ đẹp của cả hai hình tượng nhân vật đặc biệt là nhân vật Huấn Cao được thể hiện tập trung nhất trong cảnh cho chữ. Cái đẹp ra đời trong một “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà”, “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô từng nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn, thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở ngay giữa nơi cái ác và bóng tối đang ngự trị. Có một sự đổi ngôi đã diễn ra: người nghệ sĩ tài hoa đang dậm tô từng nét chữ không phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng và chỉ sớm tinh mơ ngày mai là sẽ bị giải vào kinh chịu án tử hình. Kẻ tù nhân vượt lên để trở thành người sáng tạo, ban phát cái đẹp, người răn dạy những điều phải trái còn ngục quan thì khúm núm, vái lạy người tù. Cái đẹp của thiên lương, cái đẹp của tài năng và nhân cách đã vượt lên tất cả để khẳng định mình và để chiến thắng.
Trong “Tờ hoa”, Nguyễn Tuân đã thể hiện những suy tưởng của mình về cội nguồn của cái đẹp: cũng giống như con ong làm mật, quá trình hoài thai đau đớn và nặng nhọc của con trai để có ngọc, của những cái rễ con âm thầm trong lòng đất kín giúp cho có được những bông hoa thơm, quá trình sáng tạo nên cái đẹp của người nghệ sĩ là không hề giản đơn. Cái đẹp của thiên lương và khí phách trong “Chữ người tử tù” cũng phải.trải qua những thử thách tương tự như thế để tự khẳng định được mình. Phải đến tận ngày cuối cùng trong cuộc đời Huấn Cao, hai thiên lương trong sáng ây mới có thực sự hiểu được nhau, gặp nhau để cùng nhau làm cho cái đẹp tỏa sáng. Từ những hình tượng nhân vật này, Nguyễn Tuân cũng đồng thời trình bày quan điểm thẩm mĩ của mình về cái đẹp: cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Một nhân cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài. Đó trở thành nét nổi bật trong tác phẩm cũng như trong những suy tưởng của Nguyễn Tuân về cái đẹp.
“Cái đẹp cứu rỗi, cứu vớt thế giới này” (Đôx-tôi-ep-xki). Cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân vì thế mà cũng sẽ có ý nghĩa trong mọi thời đại.