Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh càng phát huy tác dụng. Những rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Các Ngân hàng & các Định chế tài chính phi Ngân hàng trước hết là trung gian tài chính – Chúng đứng giữa và “đứng trong vòng vây” của 4 nhóm những người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình,. | Các Ngân hàng & các Định chế tài chính phi Ngân hàng trước hết là trung gian tài chính – Chúng đứng giữa và “đứng trong vòng vây” của 4 nhóm những người có vốn và cần vốn trong nền kinh tế gồm: Hộ gia đình, Doanh nghiệp, Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài. Sản phẩm mà các NHTM mua, bán, kinh doanh trên thị trường là các dịch vụ lưu chuyển vốn và các tiện ích Ngân hàng khác. Trong hoạt động tín dụng, cho dù hệ số an toàn vốn có đạt tới 8% thì so với tài sản có, số vốn liếng của bản thân Ngân hàng chỉ là không đáng kể (hoặc nói theo các nhà toán học thì có thể dùng cụm từ “vô cùng nhỏ bé”). Nói một cách ngắn gọn là: Hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để thu hút nguồn và dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ Ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM do đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Bởi vậy, nhiều ý kiến cho rằng các Ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.