Hình ảnh giải phẫu bệnh Trước điều trị Lớp thượng bì: Tất cả đều có hiện tượng tăng sừng từ nhẹ, vừa, đến nặng. Tăng sừng loại trực sừng (orthokeratose) nhiều hơn á sừng (parakeratose). Tất cả đều có tăng gai từ yếu, vừa đến mạnh ở lớp Malpighi tạo ra các mào thượng bì lấn sâu vào mô bì nông như hình ngón tay. 52 trường hợp (40%) tạo ra các đám rối. Hiện tượng xốp bào (Spongiosiforme) hiện diện 53 trường hợp (40,76%). . | NGHIÊN CỨU BỆNH VẨY NẾN THÔNG THƯỜNG CHƯA BIẾN CHỨNG Phần 2 Hình ảnh giải phẫu bệnh Trước điều trị Lớp thượng bì Tất cả đều có hiện tượng tăng sừng từ nhẹ vừa đến nặng. Tăng sừng loại trực sừng orthokeratose nhiều hơn á sừng parakeratose . Tất cả đều có tăng gai từ yếu vừa đến mạnh ở lớp Malpighi tạo ra các mào thượng bì lấn sâu vào mô bì nông như hình ngón tay. 52 trường hợp 40 tạo ra các đám rối. Hiện tượng xốp bào Spongiosiforme hiện diện 53 trường hợp 40 76 . Vi áp xe Munro có 53 trường hợp hiện diện 40 76 . Trong mô bì Hầu hết đều có thâm nhiễm viêm ở mô bì nông từ ít đến nhiều. Một số ít trường hợp có thoái bào tăng sản mô sợi tăng sinh mao mạch nhú bì. Hầu hết đều có hiện tượng viêm mạch vascularite từ yếu vừa đến mạnh. Những thay đổi của hình ảnh giải phẫu bệnh Từ lúc bắt đầu điều trị đến khi khỏi bệnh hình ảnh giải phẫu bệnh có những thay đổi - Đầu tiên là hiện tượng mất đi các vi áp xe Munro. - Sau đó là hiện tượng tăng sừng từ mạnh sẽ chuyển thành tăng sừng vừa bệnh tiến triển tốt hơn sẽ còn rất nhẹ. Không thấy tăng sừng loại á sừng mà chỉ còn loại trực sừng. - Hiện tượng xốp bào Spongiosiforme giảm nhiều cho đến mất hẳn. - Hiện tượng tăng gai từ mạnh giảm đến vừa rồi nhẹ và rất nhẹ chỉ còn rất ít trường hợp có mào thượng bì nhưng chỉ hơi lấn vào mô bì nông cho nên không thấy được hình các ngón tay. - Không còn tạo ra các đám rối và cũng không có phù trên nhú bì. - Ở mô bì thâm nhiễm viêm càng giảm và các thoái bào cũng không còn hiện diện hoặc rất ít. - Tăng sản mô sợi và mô liên kết cũng giảm dần rồi mất đi. - Hiện tượng viêm mạch Vascularite không còn mạnh mà giảm còn vừa và nhẹ cho đến mất hẳn. NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN về lý do sử dụng kẽm trong điều trị vẩy nến Bảng 6 cho thấy 65 33 bệnh nhân vẩy nến có trị số kẽm huyết thanh dưới 0 8 mg dL. Theo GS Đồ Đình Hồ 4 trị số bình thường của kẽm trong huyết thanh từ 1 1 đến 1 3 mg dL. Theo GS Nguyễn Văn Út trong bệnh vẩy nến là có sự thiếu kẽm 8 Tác giả Dréno B cũng nêu lên tình trạng thiếu kẽm trong một số .